Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyên Nhân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyên Nhân. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2013

Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường

Bệnh tiểu đường biểu hiện qua triệu chứng lâm sàng và kết quả xét nghiệm. Nếu chỉ dựa vào dấu hiệu bệnh lý kinh điển như thường được mô tả theo kiểu 3 nhiều  – ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều – thì sẽ bỏ sót nhiều trường hợp tiểu đường. vì khi bước vào thế kỷ 21, căn bệnh này đã biến thể nên ít khi xuất hiện với hình ảnh bệnh lý lớp lang thứ tự như trong sách vở.
Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường
Nếu chỉ dựa trên đặc tính một thời của bệnh tiểu đường là người bệnh càng lúc càng khát nước, càng gầy mòn, đến độ thầy thuốc Đông y đặt tên cho căn bệnh này là chứng tiêu khát, thì càng dễ lầm vì nhiều người mắc bệnh tiểu đường tuy có thể uống nước nhiều hơn bình thường nhưng không hề ốm o, mà trái lại, béo phì! Khó hơn nữa cho việc chẩn đoán là tiểu đường trong nhiều trường hợp lại biểu lộ một cách âm ỉ với các triệu chứng đánh lạc hẳn hướng định bệnh như đau vai, đãng trí, mất ngủ, mệt mỏi, thay đổi cá tính…, khiến bệnh nhân mất nhiều thời gian do điều trị không đúng hướng. Do đó, không lạ gì những trường hợp phát hiện bệnh quá trễ do chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng.
Nếu không thể trông cậy vào tiêu chí chủ quan, cách tốt nhất là tiến hành xét nghiệm ngay cả khi không có dấu hiệu nghi ngờ. Thông thường, trong nước tiểu không có chất đường, thận chỉ bài tiết chất đường trong nước tiểu khi trong 24 giờ trước đó lượng đường trong máu cao hơn 180mg.

Như thế, nhiều người bị bệnh tiểu đường vẫn không có đường trong nước tiểu nếu đường huyết tuy tăng cao nhưng dưới 160mg. Thử đường trong nước tiểu tuy là phương pháp đơn giản, rẻ tiền và tiện lợi cho người bệnh nhưng không chính xác để định bệnh và không trung thực để theo dõi bệnh, ngoại trừ giá trị báo động cho người đã bị bệnh là đường huyết đã tăng cao, nếu như người bệnh không có phương tiện xét nghiệm nào khác.

Nếu theo định nghĩa, tiểu đường là bệnh lý do tăng lượng đường trong máu thì biện pháp cơ bản để xác minh căn bệnh này là phương pháp đo đường huyết. Trị số bình thường của đường huyết dao động trong khoảng 80-110mg. Cần lưu ý là nhiều phòng xét nghiệm áp dụng một đơn vị đo lường khác là mol (1 mol tương đương 1,8mg). Như thế, gọi là nghi ngờ bệnh tiểu đường khi lượng đường trong máu cao hơn 120mg hay 65 mol. Cho đến nay, đo đường huyết trong tĩnh mạch lúc bụng đói vẫn là phương pháp phổ biến. Phương pháp này tuy vậy không có giá trị tuyệt đối, vì:

- Chỉ phản ánh lượng đường trong máu vào thời điểm xét nghiệm. Không thể khẳng định bệnh nhân không bị bệnh tiểu đường khi trị số xét nghiệm trong định mức bình thường nếu chỉ thử máu theo kiểu xuân thu nhị kỳ, vì không ai dám quả quyết là lượng đường trong máu hôm qua cũng bình thường!

- Lượng đường trong máu lúc sáng sớm có thể tăng cao hơn bình thường, dù người thử máu chưa bị bệnh tiểu đường- có thể do nhịn đói suốt đêm trước, lo lắng suốt đêm hay ngày hôm trước đã dùng thuốc có tác dụng phụ làm tăng đường huyết.

Do đó, không thể dựa vào kết quả của một lần xét nghiệm để khẳng định, chẩn đoán một cách hời hợt. Trong tiến trình theo dõi bệnh tiểu đường trên người đã bị bệnh cũng vậy. Không thể đánh giá diễn tiến của bệnh nếu chỉ dựa vào vài kết quả thử máu.

Trong trường hợp nghi ngờ, cũng như để giảm tối đa độ ngờ của kỹ thuật xét nghiệm, nhiều thầy thuốc đặt nặng giá trị vào phương pháp đo đường huyết sau khi ăn. Với người không bị bệnh, cho dù có ăn ngọt bao nhiêu thì đường huyết vẫn trở về định mức bình thường trong vòng 2 giờ sau bữa ăn. Đường huyết càng cao sau bữa ăn và càng chậm trở về trị số bình thường cho thấy bệnh tiểu đường càng nặng.

Bên cạnh đó, còn một số xét nghiệm đặc hiệu, như HbA1C có độ chính xác không chỉ hơn nhiều lần phương pháp đo đường huyết trong tĩnh mạch mà còn thể hiện mức độ ổn định của đường huyết trong nhiều tuần trước thời điểm xét nghiệm. Trị số bệnh lý của HbA1C càng cao chứng tỏ đường huyết đã dao động rất nhiều trong thời gian trước đó. Nếu thầy thuốc quên, bệnh nhân nên cố nhớ để mạnh dạn yêu cầu nhà điều trị tiến hành thử nghiệm này nhằm có cái nhìn trung thực về diễn biến của bệnh tình thay vì tự “ru ngủ” với một vài kết quả xét nghiệm may mắn trong định mức bình thường.

Nói chung, phát hiện bệnh tiểu đường với phương tiện chẩn đoán hiện nay không khó, trừ khi: Không ít thầy thuốc bỏ sót căn bệnh này mỗi khi khám bệnh vì chưa đánh giá đúng mức mối nguy của bệnh tiểu đường; rất nhiều người bệnh cố tình tránh né sự thật, từ chối tầm soát với suy nghĩ thà không biết thì thôi. Tiểu đường vì thế vẫn còn là căn bệnh nặng!

 Tags: Benh vien noi tiet, bệnh viện nội tiết, benh vien noi tiet trung uong ha noi

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

Bệnh đái tháo đường: Nguyên nhân chính làm mù mắt

Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO) và kết quả nghiên cứu của các chuyên gia trên thế giới, bệnh đái tháo đường là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây mù mắt của người trưởng thành.

Hàng năm trên thế giới có 1,6% số người có biến chứng ở mắt do đái tháo đường. Đây là biến chứng phổ biến tới mức mà cứ sau 15 năm bị bệnh thì 100% người bệnh có biến chứng về mắt. Sau 10 năm bị bệnh có 80% người bệnh có biến chứng mắt, thậm chí ngay khi phát hiện ra bệnh thì cũng có khoảng 20% – 30% người bệnh có biến chứng mắt.

Bệnh đái tháo đường: Nguyên nhân chính làm mù mắt
Bệnh đái tháo đường

Ngoài ra, bệnh thận giai đoạn cuối cũng là một biến chứng phổ biến của bệnh đái tháo đường. Tại Mỹ, gần 36% người bị bệnh thận giai đoạn cuối là do biến chứng của bệnh đái tháo đường.

Bệnh lý bàn chân do đái tháo đường là một biến chứng rất nguy hiểm và gây tỷ lệ tàn tật cao. Theo các chuyên gia y tế, bệnh lý bàn chân đái tháo đường dẫn tới cắt cụt chi chiếm tới 40% – 70% trong số các nguyên nhân gây cắt cụt chi và hàng năm có trên 1 triệu người nằm trong số này.

Nhưng biến chứng gây tử vong cao nhất ở người bệnh đái tháo đường chính là tim mạch. Theo các chuyên gia y tế, người bệnh đái tháo đường có nguy cơ bị bệnh tim mạch cao gấp từ 4 – 10 lần so với người không bị bệnh đái tháo đường.

Bởi vậy, để hạn chế những biến chứng nguy hiểm này, mỗi người cần phải tự điều thói quen ăn uống và sinh hoạt, nhất là khi đã mắc phải căn bệnh bởi đến nay vẫn chưa có thuốc chữa đặc hiệu.


 Tags: Benh vien noi tiet, bệnh viện nội tiết, benh vien noi tiet trung uong ha noi